.
.

Đọc bản đảng viên tự kiểm điểm trước đây, suy nghĩ về đảng viên tự kiểm điểm hiện nay

Thứ Bảy, 24/03/2012|22:50

Tôi vừa tìm được bản tự kiểm điểm định kỳ trong đợt “chỉnh cán chỉnh cơ” của ông Nguyễn Sinh Chưng – Trưởng ty Thông tin Tuyên truyền tỉnh Quảng Bình, do một cán bộ Trường Đảng tỉnh Quảng Bình cung cấp. Xin thông tin lại cho bạn đọc bản tự kiểm điểm của một đảng viên cách đây 58 năm và suy nghĩ về đảng viên tự kiểm điểm hiện nay.

Bản kiểm điểm của ông có sáu chữ ký xác nhận của sáu cán bộ, đảng viên trong tổ văn hóa giáo dục của tỉnh (gồm các ông: Trung Tâm, Phạm Kim Ngân, Hoàng Trọng Báu, Trần Đình Côn, Nguyễn Đình Nhân và Phạm Minh Chúng).

Sau thắng lợi của chiến dịch Biên Giới, năm 1953 Trung ương Đảng ta quyết định khẩn trương chuẩn bị cho giai đoạn tổng phản công trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Để chuẩn bị tư tưởng cho đảng viên, quân và dân ta bước sang giai đoạn mới, Trung ương Đảng ta đã đề ra phong trào “chỉnh cán, chỉnh quân” (đối với lực lượng quân đội) và “chỉnh cán, chỉnh cơ” (đối với lực lượng cán bộ trong cơ quan ban ngành). 

Trong bản tự kiểm điểm định kỳ của ông Nguyễn Sinh Chưng, có 4 phần: Kiểm điểm tư tưởng sợ địch; kiểm điểm quan điểm sợ khó sợ khổ, sợ trường kỳ kháng chiến; kiểm điểm việc “tranh thủ” trong công tác để vì lợi ích riêng tư và kiểm điểm về mặt nhận thức trong sự bóc lột tàn tệ của đế quốc phong kiến đối với nhân dân ta.

Đọc bản tự kiểm điểm này tôi thấy ông nói về ưu điểm của chính mình rất ít. Trong suốt 6 trang viết bằng “giấy bù” nhám và đen của thời ấy, ông Phạm Sinh Chưng chỉ nói về những tồn tại và tự phê phán rất nghiêm khắc những khuyết điểm của bản thân mình ở cả 4 phần của bản tự kiểm điểm.

Trong phần tự kiểm điểm tư tưởng sợ địch có đoạn ông viết: “Ty Thông tin Tuyên truyền tỉnh Quảng Bình đóng ở đồng bằng. Thường bị uy hiếp dưới tầm đạn ca nông và máy bay địch. Một dịp tôi bị thương nhẹ, nhân đó tôi cho cơ quan chuyển về chiến khu vùng miền núi”. Ông tự phê phán: “đó là vì động cơ sợ chết, sợ bị thương. Đó là tư tưởng khiếp sợ địch. Mang động cơ cá nhân, dùng mệnh lệnh làm cho một số cấp dưới thắc mắc, phản đối”. Ông kết luận: “tôi đã không nghĩ đến nhân dân đang kiên trì bám trụ dưới tầm bom đạn của giặc…. Người đảng viên trước hết phải rèn luyện tính chịu đựng, phải biết đương đầu với sự sống và cả cái chết để cứu vãn lấy sinh mệnh của đất nước, kể cả sinh mệnh chính trị của bản thân mình”.

Trong phần phê phán tinh thần sợ khó sợ khổ, sợ trường kỳ kháng chiến ông đã kiểm điểm: “tháng 11 năm 1951 tôi đi dự Hội nghị tuyên truyền ở khu về, đáng lẽ tôi phải vào miền nam của tỉnh ngay, nhưng tôi lấy lý do đang đi công tác một số vùng của phía bắc gần nhà, tôi nghỉ thêm một tháng để được vợ con tẩm bổ. Tôi đã vô kỷ luật không làm gương cho anh em nhân viên cấp dưới. Họ cũng học theo tôi vào chậm quá thời hạn công tác. Lần nữa, năm 1952 tôi đi công tác ở miền bắc, bị thương nhẹ tôi lấy cớ xin nghỉ thêm 15 ngày để điều trị. Vì tôi nghĩ vào miền nam hiện nay rất ác liệt, đời sống rất kham khổ lại bị uy hiếp nguy hiểm đến cả tính mạng…” cuối cùng ông tự phê phán: “người đảng viên Đảng Lao động Việt Nam phải luôn nhớ rằng, lo trước cái lo của dân, phải hưởng thụ sau dân. Phải rèn luyện chịu đựng gian khổ hi sinh, khắc phục tư tưởng cầu an hưởng lạc. Luôn luôn suy nghĩ đến sự cực khổ của nhân dân. Nhân dân là người cùng khổ nhất, phải đặt mức sống của mình ngang hàng với nhân dân. Có như thế mới lãnh đạo được nhân dân, phải luôn chuyên tâm cho sự nghiệp cách mạng”.

Phần kiểm điểm việc “tranh thủ” trong công tác để vì lợi ích riêng tư, ông Nguyễn Sinh Chưng viết: “như tôi đã viết ở phần trước, tôi đã lấy lý do công tác, lấy lý do bị thương để về sống với vợ con gần 2 tháng. Những lần sống thiếu thốn vất vả quá vợ tôi khuyên tôi về đầu hàng giặc... Có lần tôi đã định cắt đứt tình vợ chồng thả vợ về với địch”. Ông đã tự phê phán: “…tôi đã chịu đựng gian khổ trong 7 năm trường kỳ kháng chiến, được vợ chăm sóc đùm bọc nhưng do chỉ một câu nói của vợ thiếu suy nghĩ mà tôi đã vội cho rằng vợ tôi là người phản động. Nếu vợ đã nghe lời tôi thì địch sẽ dựa vào đó để phản tuyên truyền và phá vỡ các cơ sở của ta. Tôi tham gia kháng chiến với tư tưởng ỷ lại, thiếu tinh thần tự lực cánh sinh. Tôi không có tư tưởng cách mạng dứt khoát, thiếu phương pháp tuyên truyền thuyết phục đối với gia đình. Có khi do quá nghèo khổ, khó khăn tôi đã lúng túng thiếu sự sáng suốt quyết đoán của một người đảng viên…”.

Trong phần tự kiểm điểm về nhận thức sự bóc lột tàn tệ của đế quốc phong kiến ông viết: “năm 1951, nhân anh em cán bộ thị xã Đồng Hải cho biết: tôi có một người em họ ở Phú Ninh trong vùng tạm chiếm rất giàu, làm ăn sản xuất rất khá, tôi đã gửi thư xin của cải, đồng hồ, bút máy…. Vì tôi nghĩ rằng, trong số ruộng vườn của em họ tôi thừa hưởng có một phần ruộng của mẹ tôi và một mảnh vườn nữa…”. Ông đã tự phê phán: “đó là tư tưởng cầu an hưởng lạc. Nhận quà của người giàu để hưởng lạc cá nhân. Tôi chưa phát huy được tính tự lực cánh sinh, chưa xác định được lao động là vinh quang”.

Cuối cùng ông Nguyễn Sinh Chưng đã đề ra phương pháp tu dưỡng và rèn luyện bản thân như sau:

“- Tự lao động, lao động hóa bản thân và gia đình để tự cải thiện đời sống và cải tạo tư tưởng hưởng lạc cầu an.

- Phải hòa mình với nông dân, đi sâu đi sát nhân dân.

- Đặt mức sống hàng ngày của mình, gia đình mình ngang với mức thấp nhất của người cùng khổ nhất. Không đòi hưởng lạc và sống xa hoa.

- Ghép mình, vợ con mình vào tổ chức kháng chiến.

- Không sợ địch, không sợ chết, không sợ bị thương. Tất cả cho trường kỳ kháng chiến thắng lợi”.

Đọc bản tự kiểm điểm định kỳ của một đảng viên Đảng Lao động Viêt Nam, một cán bộ đầu ngành của tỉnh Quảng Bình trong đợt “chỉnh cán, chỉnh cơ” mà Trung ương Đảng phát động, tôi rất xúc động và cảm phục tư tưởng “tự phê bình và phê bình” mà Bác Hồ đã dạy. Tư tưởng tự phê và phê bình là vũ khí sắc bén để đảng viên từng bước hoàn thiện mình, tu dưỡng sữa chữa những sai lầm thiếu sót của bản thân, nguyện trở thành một đảng viên gương mẫu, một cán bộ tốt. Có như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, chúng ta mới giành được thắng lợi vẻ vang trong việc chuẩn bị cho giai đoạn tổng phản công trong chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 và Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 1954.

Đọc bản tự kiểm điểm định kỳ của ông Nguyễn Sinh Chưng, nguyên Trưởng Ty Thông tin Tuyên truyền, tiền thân của Ty Văn hóa Thông tin, nay là Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch, Sở Thông tin Truyền thông của tỉnh Quảng Bình, tôi tự liên tưởng ngay đến việc đảng viên viết bản tự kiểm điểm định kỳ hằng năm hiện nay.

Để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng các cấp giai đoạn 2011-2016, để thực hiện tốt nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 về xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay, thiết nghĩ cần nhận thức rõ, hiện nay chúng ta đang trong giai đoạn “bản lề”, chuẩn bị cho cuộc “tổng phản công” để đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Mục tiêu sự nghiệp cách mạng đó có thành công và trở thành hiện thực hay không trước hết phụ thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng và vai trò đầu tàu gương mẫu của mỗi đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Một trong những yếu tố để đảng viên tu dưỡng, rèn luyện là việc tự kiểm điểm định kỳ hằng năm, hay kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương bốn về xây dựng Đảng hiện nay phải thực sự có hiệu quả, biết tự phê bình và phê bình thẳng thắn, biết nhìn thẳng vào sự thật, biết nói đúng sự thật và biết hành động đúng của mỗi đảng viên, tương tự như bản tự kiểm điểm định kỳ của ông Nguyễn Sinh Chưng.

Nhìn lại các bản đảng viên tự kiểm điểm định kỳ hằng năm hiện nay mà các tổ chức đảng đang làm thì thấy không ít nơi làm cho xong chuyện, mang tính hình thức. Chủ yếu bản tự kiểm điểm ấy chỉ nói về ưu điểm của mình, phần khuyết điểm thiếu sót, phần phương hướng khắc phục những khuyết điểm chỉ được viết qua quýt, chiếu lệ. Hơn nữa, mấy năm gần đây, mỗi đảng viên chúng ta viết theo mẫu in sẵn của ban tổ chức. Phần khuyết điểm thiếu sót chỉ có vài ba dòng, phần phương hướng khắc phục cũng vậy. Thậm chí bản tự kiểm điểm định kỳ hằng năm của mỗi đảng viên có thể sao chép cho nhiều đảng viên khác vẫn đúng, hoặc bản tự kiểm điểm định kỳ của năm này có thể sao chép sang cho những năm sau vẫn đúng, vẫn hay. Đó là tình trạng không hiếm thấy. Bản kiểm điểm sao chép đó vẫn được trình bày trước chi bộ Đảng, vẫn được xếp loại đảng viên bằng bỏ phiếu kín đàng hoàng.

Nên chăng, cần có sự đổi mới về mẫu văn bản đảng viên tự kiểm điểm và được thống nhất chung trong toàn Đảng. Bản đảng viên tự kiểm điểm phải được viết tay, viết từ tâm, từ con tim dựa vào các yêu cầu của tổ chức Đảng, phù hợp với tình hình cụ thể hằng năm. Có suy nghĩ trăn trở với những yêu cầu hằng năm của Đảng thì bản viết mới có chất lượng thực sự. Đây cũng chính là một lần tự thức tỉnh mình, tự nghiêm khắc với chính mình. Bản tự kiểm điểm của đồng chí Nguyễn Sinh Chưng cách đây 58 năm, đáng để các thế hệ đảng viên và tổ chức đảng suy nghĩ, học tập và làm theo./.  

Lương Duy Niệm

Theo Tạp chí Cộng sản

 

.
.
.
.